Giới luật Đại_hội_kết_tập_kinh_điển_Phật_giáo_lần_thứ_nhất

Lúc gần nhập diệt, Phật từng nói với A-nan là không nên chấp vào giới luật, những giới luật nào nhỏ nhặt có thể bỏ qua, thay đổi cho phù hợp với thời thế. Sự việc này cho thấy Phật đã ý thức được rằng việc tuân thủ giới luật một cách cứng nhắc và đem áp dụng cho tất cả mọi người và trong mọi thời đại là điều không hợp lý, Ngài coi giới chỉ là phương tiện không phải là mục đích (cứu cánh).

Khi A-nan nói như vậy với tăng chúng để cả đại hội xem xét. Ma-ha-ca-diếp mới hỏi lại A-nan rằng giới luật nào nhỏ nhặt, nhưng trước đấy do không hỏi Phật nên A-nan không biết - nhiều người cho rằng có thể lúc đó A-nan đang xúc động trước sự việc Phật sắp mất mà không chú ý đến việc hỏi xem giới nào là giới có thể điều chỉnh[1]. Để tránh những nguy cơ tiềm ẩn của sự tự do thái quá trưởng lão Ma-ha-ca-diếp quyết định là không được thay đổi những giới Phật đã chế cũng như không được chế thêm giới mới.

Các thông tin về đại hội

  • Yêu cầu thành lập đại hội: Trưởng lão [Ma-ha-ca-diếp]
  • Chủ trì: A-nhã-kiều-trần-như, Phú-lâu-na, Đàm-di, Đà-bà-ca-diếp, Bạt-đà-ca-diếp, Ma-ha-ca-diếp, Ưu-ba-li, A-na-luật[2].
  • Địa điểm diễn ra cuộc kết tập là chân núi Vibhara, gần thành phố Rajgir (Vương xá), kinh đô của vương quốc Magadha - gần biên giới Ấn ĐộNepal ngày nay[1].
  • Thời gian: Sau khi Phật nhập Niết bàn một thời gian ngắn. Đại hội kéo dài trong 7 tháng, phật giáo Bắc truyền cho rằng chỉ có 3 tháng[3]
  • Người hỗ trợ tài chính cho cuộc kết tập là vua A-xà-thế chủ thành Vương xá.
  • Số lượng A-la-hán tham gia đúng 500 vị, những người không phải là A-la-hán không được tham gia. Do số lượng là 500 mà cuộc kết tập lần này còn có tên là Ngũ bách kết tập.
  • Người đọc về kinh là tôn giả A-nan, anh em họ của Phật và là người theo hầu Phật suốt 25 năm, ông có trí nhớ rất tốt. Tương truyền rằng A-nan giao kết với Đức Phật chỉ nhận làm thị giả với điều kiện là nếu có lần thuyết giảng nào mà A-nan không dự được, Đức Phật phải giảng lại hoặc nhờ một trong 10 đại đệ tử giảng lại, chính vì thể gần như toàn bộ nội dung Đức Phật thuyết giảng ông đều nắm rõ. Ngay trước đại hội có 1 đêm nhờ nỗ lực A-nan mới chứng quả vị A-la-hán, điều này nhiều người cho rằng đã có một sự "châm trước" nào đó cho A-nan bởi vì vai trò của ông rất quan trọng, nhưng nếu không đắc A-la-hán thì nhất quyết không được gia nhập đại hội. Các kinh thường được mở đầu bằng câu "như thị ngã văn..." có nghĩa là "tôi nghe như vậy, một thời, tại...", tôi ở đây chính là A-nan[1].
  • Người đọc về luật là tôn giả Ưu-ba-li, người rất thông hiểu về giới luật.
  • Hình thức chấp thuận: A-nan và Ưu-ba-li đọc, các thành viên trong đại hội nếu đồng ý thì coi đó là lời Phật đã nói.
  • Hình thức lưu trữ: Thời đó không ghi ra giấy mà chỉ đọc tụng và được ghi nhớ trong đầu. Cũng vì để dễ nhớ mà các bộ kinh có kết cấu lặp đi lặp lại. Do độ lớn của kinh và luật nên mỗi một nhóm đảm trách công việc ghi nhớ chuyên biệt một số chương nhất định, những nhóm này về sau thường xuyên trao đổi thông tin với nhau để tránh việc mất mát và hiểu sai[4].
  • Quan điểm: tất cả đều đồng ý giữ nguyên những gì do Phật thuyết, nhưng tùy thời điểm mà áp dụng, không thêm, cũng không bớt.